Bức tranh Chúng Dân Chi Mẫu do họa sĩ Nam Ngọc Đoàn Thành Lộc phụng hoạ bốn vị Thánh Mẫu trong Đạo Mẫu – Tứ Phủ. Chư vị Thánh Mẫu mỉm cười nhẹ nhàng, ánh mắt nhìn xuống con nhang đệ tử, hết mực dạy dỗ chở che. Các Ngài phục sức theo lối thời Lê, đầu phối bác sơn kim phượng, có trâm vàng anh lạc; thân vận áo Giao Lĩnh có màu tương ứng với Phủ của mình.
Thứ nhất là Mẫu Đệ Nhất Thiên Tiên, Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa [九重青雲公主], vận trang phục màu đỏ đại diện cho Thiên Phủ. Mẫu ngự khuất nơi cao phía sau, gợi đến chốn thiên cung cao xa vời vợi. Tay phải Mẫu kết ấn Bảo Thủ, biểu ý của Báu Tự Tâm sẵn có. Ngón trỏ giơ cao cũng là biểu thị cho vị trí Đệ Nhất Thiên Tiên. Tay trái cầm thanh Như Ý ngọc, là quyền năng cho vạn sự trong vũ trụ được như ý, muôn dân trong thiên hạ được an vui.
Thứ hai là Mẫu Đệ Nhị Địa Tiên, Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Công Chúa [瓊花柳杏公主], vận trang phục màu vàng đại diện cho Địa Phủ. Mẫu ngự ở ngoài cùng, gợi nhắc đến vị trí Thánh Mẫu Thần Chủ. Ngài là vị thần nữ đại diện cho Đạo Mẫu – Tứ Phủ nơi hạ giới. Mẫu cầm quạt có đồ án chim phượng tột bậc tôn quý. Tay còn lại cầm tràng hạt, thể hiện Ngài đã quy y Tam Bảo, được tôn xưng là Mã Hoàng Bồ tát.
Thứ ba là Mẫu Đệ Tam Thuỷ Tiên, Bạch Ngọc Xích Lân Công Chúa [白玉赤鱗公主], vận trang phục màu trắng đại diện cho Thuỷ Phủ. Ngài ngự bên trái của tranh, là hướng Đông, tức về phía Biển Đông. Tay Mẫu cầm chiếc quạt bạch ngọc khảm bốn chữ bằng vàng Phong Điều Vũ Thuận [風調雨順 – Mưa Thuận Gió Hoà].
Thứ tư là Mẫu Đệ Tứ Nhạc Tiên, Lê Mại Bạch Anh Công Chúa [黎邁白英公主], vận trang phục màu xanh lá đại diện cho Nhạc Phủ. Ngài ngự bên phải của tranh, là hướng Tây, tức về phía những dãy đại ngàn hùng vĩ, bao gồm Hoàng Liên Sơn và Trường Sơn. Mẫu cầm quạt lông công, loài chim xinh đẹp, cao quý của núi rừng.
Xung quanh chư vị Thánh Mẫu là 12 tiên nàng hầu cận.
Trên cùng là đôi cô cầm lọng che. Hai bên cạnh là hai cô cầm phướn. Phướn bên trái đề bốn chữ Mẫu Nghi Thiên Hạ [母儀天下], phướn bên phải đề Tứ Phủ Vạn Linh [四府萬靈]. Hai cô bên dưới cầm đôi quạt lông thêu đồ án long mã phù thư.
Kế đến là các cô cầm hộp ấn Tứ Phủ tượng trưng quyền lực bốn cõi, cây phất trần thanh tẩy, hoa thơm quả ngọt và cặp thủ lư xông trầm dẫn lối.
Dưới cùng là chim phượng, hình tượng đang kéo chiếc xe loan của chư vị Thánh Mẫu.
Bức tranh miêu tả tổng thể loan giá của chư vị Thánh Mẫu vân du. Trong sát na ngắm nhìn tôn dung, chư vị như đang trắc giáng điện đàn, ảnh hiện trước mặt con dân. Mây toả khắp nơi, thánh nhũ triêm ân, tứ phương an vui lợi lạc.
Trên đây là những quan sát cá nhân của chúng tôi sau khi tham khảo những vị tiền bối. Xoay quanh tác phẩm này vẫn còn nhiều ý nghĩa khác, mà hy vọng một ngày nào đó chúng ta sẽ được nghe chia sẻ từ chính tác giả Nam Ngọc Đoàn Thành Lộc.
Bên dưới là nội dung bản sớ văn dâng tranh. Chúng tôi đăng lại tại đây, ngõ hầu quý đạo hữu nào cần có thể sử dụng tuỳ nghi.
BẢN SỚ VĂN
Phục dĩ:
Dao trì nguyệt lãng, kim khuyết thanh cao.
Hữu Tiên tắc danh, ngũ bách xương kỳ khai cảnh vận.
Vi dân sở ngưỡng, tam thiên thế giới mộc ân quang.
Hoàng Giang thu thủy trừng thanh, nguyệt kính phổ thiên khai sắc tướng.
Phủ lịch đơn thành, thanh hương thấu đạt.
Thiết niệm:
Sanh phùng hạ giới, mạng hệ thượng thiên.
Hà càn khôn chí đại chí cao, công hoành phú tải. Cảm Tiên Thánh tối linh tối sảng, đức quảng chiếu lâm.
Khủng cụ bàng hoàng, phất năng báo đáp.
Tư giả lương thần, cảnh vật hòa minh, liệt trần hương hoa, phỉ lễ chi nghi, nhất niệm tâm hương, tâm thành khấu bái.
Cung duy:
Tam Giới Thiên Chủ, Tứ Phủ Vạn Linh, Thiên Địa Thủy Nhạc, Công Đồng Thánh Đế Ngọc Bệ Hạ.
Đệ Nhất Thiên Tiên, Cửu Trùng Thanh Vân Công Chúa Cung Khuyết Hạ.
Đệ Nhị Địa Tiên, Quỳnh Hoa Liễu Hạnh Công Chúa Cung Khuyết Hạ.
Đệ Tam Thủy Tiên, Xích Lân Bạch Ngọc Công Chúa Cung Khuyết Hạ.
Đệ Tứ Nhạc Tiên, Lê Mại Bạch Anh Công Chúa Cung Khuyết Hạ.
Thiên Đình, Địa Phủ, Thủy Cung, Thượng Ngàn, Ngũ Vị Hoàng Thái Tử Vương Quan, Tứ Ban Khâm Sai Công Chúa Chầu bà, Tứ Phủ Thánh Hoàng, Tam Thập Lục Bộ, Hội Đồng Sơn Trang Thần Nữ, Hoàng Triều Hoàng Quận, Thập Nhị Thánh cô, Tứ Phủ Thánh Cậu vị tiền.
Phổ cập nhất thiết tả hữu Công Đồng, liệt vị bách quan, thủ đền thủ điện, Ngũ Hổ thần quan, Nhị Xà thần tướng, tả thiên thiên lực sĩ, hữu vạn vạn tinh binh, nhất thiết Thánh chúng.
Khâm nguyện:
Thánh đức xương minh, Đế đạo hưng long.
Pháp vũ ân triêm, pháp đăng biến chiếu.
Hy hy bạo tự Nghiêu thiên, hạo hạo quang y Thuấn nhật.
Thế thuần tục mỹ, vãn hồi thái cổ chi phong. Tác cửu niên trường, vĩnh điện an bang chi thế.
Quốc tộ Việt Nam vĩnh điện kim âu. Cửu châu tứ hải chư bang tự phục.
Tứ thời lợi lạc an cường, bát tiết phong doanh đại niệm.
Triêu tịch sở đệ nhất chi minh hương, đồng thanh cung chúc “Thánh Cung Vạn Tuế”. Thần hôn chúc vô cương chi thánh thọ, đồng xưng khánh tán “Vạn Thọ Thiên Thu”.
Pháp giới hữu tình, trượng thử lương nhân, quân siêu phúc cảnh, ân triêm lợi lạc.
Phục nguyện:
Xuân sinh hạ trưởng, tứ thời cộng bảo bình an. Thu toại đông thành, bát tiết tư đào thiếp thái.
Phúc tinh quang chiếu ư môn tiền, hung nghiệt bôn đẳng ư hải ngoại.
Nam nữ cử giai xương sí, tùng tư đắc lạc đắc an. Trưởng ấu cộng bảo thọ khang, tự thân thường cường thường thịnh.
Đản thần hạ tình vô nhậm khích thiết bỉnh doanh chi chí.
Đệ tử chúng đẳng, hòa nam bái bạch.
(Chấp bút bởi Tâm Khiêm Cư Sĩ)
伏以:
瑤池月朗、 金闕清高。
有仙則名、 五百昌期開景運。
為民所仰、 三千世界沐恩光
黃江秋水澄清、 月鏡普天开色相
俯櫪丹誠、 清香透達
設唸:
生逢下界、 命系上天
何乾坤至大至髙、 功宏賦載。 感仙聖最靈最爽、 德廣曌臨
恐懼傍偟、 弗能報答。
思假良晨、 景物和明、 列陳香花、 斐禮之儀、 一唸心香、 心成叩拜。
恭惟:
三界天主、 四府万靈、 天地水岳、 公同聖帝玉陛下。
第一天仙、 九重青雲公主宮闕下。
第二地仙、 瓊花柳杏公主宮闕下。
第三水仙、 赤鱗白玉公主宮闕下。
第四岳仙、 黎邁白英公主宮闕下。
天廷、 地府、 水宮、 上岸、 五位皇太子王官、 四班欽差公主朝婆、 四府聖皇、 三十六部、 會同山莊神女、 皇朝皇郡、 十二聖姑、 四府聖舅前位。
普及一切左右公同、 列位百官、 手祠手殿、 五虎神官、 二蛇神将、 左千千力士、 右万万精兵、 一切聖眾。
欽願:
聖德昌明、 帝道昌隆。
法雨恩沾、 法燈徧照。
熙熙暴似堯天、 顥顥光依舜日。
世純俗美、 挽囘太古之風。 作久年長、 永殿安邦之世。
國祚越南永殿金甌。 九州四海諸邦自伏。
四時利樂安強、 八節豐盈大唸。
朝夕所第一之明香、 同聲恭祝 “聖宮萬歲”。 晨昏祝無疆之聖壽、 同稱慶讚 “萬壽千秋”。
法界有情、 仗跐良人、 均超福景、 恩沾利樂。
伏願:
春生夏長、 四時共保平安。 秋遂冬成、 八節私桃貼泰。
福星光照于門前、 凶孽奔騰于海外
男女舉皆昌熾、 叢滋得利得安。 長幼共保壽康、 自身常強常盛。
亶神下情無任激切屛營之至。
弟子眾等、 和喃拜白。